Đình Hữu Khánh thuộc thôn Hữu Khánh – xã Tân Phương – huyện Tam Thanh – tỉnh Vĩnh Phú. Tân Phương là xã nằm ở phía nam huyện Tham Thanh, tiếp giáp với khu vực hạ lưu sông Đà. Xã mới được thành lập từ năm 1955 gồm 3 làng: Phương Viên, Phú An và Hữu Khánh gọi là xã Tân Phương. Nhưng ngược dòng thời gian theo các tài liệu thu tịch hiện còn đến nay thì đất đai Tân Phương đã có những thay đổi về địa danh hành chính
Đình Hữu Khánh
LÝ LỊCH DI TÍCH ĐÌNH HỮU KHÁNH
Thôn Hữu Khánh – xã Tân Phương – huyện Tam Thanh – Vĩnh Phú
I. TÊN GỌI: ĐÌNH HỮU KHÁNH
II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN:
1. Địa điểm:
Đình Hữu Khánh thuộc thôn Hữu Khánh – xã Tân Phương – huyện Tam Thanh – tỉnh Vĩnh Phú. Tân Phương là xã nằm ở phía nam huyện Tham Thanh, tiếp giáp với khu vực hạ lưu sông Đà. Xã mới được thành lập từ năm 1955 gồm 3 làng: Phương Viên, Phú An và Hữu Khánh gọi là xã Tân Phương. Nhưng ngược dòng thời gian theo các tài liệu thu tịch hiện còn đến nay thì đất đai Tân Phương đã có những thay đổi về địa danh hành chính, cụ thể là:
Thời Hùng Vương thuộc bộ lạc Văn Lang đầu công nguyên thuộc huyện Gia Ninh – quận Tân Xương.
Thời Lý Trần thuộc đất Lâm Tây trấn Thiến Hưng châu Gia Hưng gọi là huyện Lung.
Đến thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) đổi thành Thanh Nguyên, đời Mạc đổi là Thanh Xuyên. Đến đời Nguyễn năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chia huyện Thanh Xuyên thành 2 huyện: Thanh Sơn và Thanh Thủy. Ngày 08/9/1891 tỉnh Hưng Hóa được thành lập, Tân Phương thuộc huyện Thanh Thủy tỉnh Hưng Hóa.
Ngày 05 tháng 3 năm 1903 thực dân Pháp chuyển tỉnh lỵ từ Hưng Hóa lên Phú Thọ và đổi tên là tỉnh Phú Thọ, làng Phương Viên thuộc tổng La Phù gồm có 8 làng: Bảo Yên, Động Lâm, La Phù, Phương Viên, Thạch Đồng, Thanh Lâm, Thượng Lộc, Viên Lâm và 2 xóm Phú An, Hữu Khánh thuộc làng Tăng Ma, tổng Phương Giao có 4 làng: Đào Xá, Phương Giao, Tăng Ma, Thu Thập.
Tháng 3 năm 1968 Chính phủ ta hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ gọi là Vĩnh Phú. Năm 1978 huyện Tam Nông sát nhập với huyện Thanh Thủy gọi là Tam Thanh thì đình Hữu Khánh có địa chỉ như hiện nay: Thôn Hữu Khánh xã Tân Phương huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú.
2. Đường đi đến:
a. Đường bộ: Từ Hà Nội theo quốc lộ 11A qua phà Trung Hà theo đường đê quai sông Đà, qua xã Xuân Lộc – Thạch Đồng 6 km rẽ tay phải 1km thì đến đình
Hữu Khánh. Từ Việt Trì theo quốc lộ số 2 rẽ đi đường Đền Hùng qua phà Ghềnh thuộc xã Cổ Tiết xuôi đường Hưng Hóa rẽ đường đi Đào Xá 7 km thì đến đình.
b. Đường thủy: Theo Sông Đà đến bến La Phù lên bờ đi vào 2km thì đến đình. Đình Hữu Khánh xã Tân Phương cách Hà Nội 67km, cách thành phố Việt Trình 35km, cách huyện lỵ Tam Thanh 7 km. Đi đến thăm đình bằng mọi phương tiện theo chỉ dẫn trên đều rất thuận lợi.
III. SỰ KIỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ:
Đình Hữu Khánh xã Tân Phương cuốn ngọc phả hiện không còn ở đỉnh, theo các cụ và chính quyền ở địa phương thì năm 1963 cán bộ Ty văn hóa Phú Thọ về nghiên cứu và mượn sau đó không hoàn trả lại. Vậy việc nghiên cứu tìm hiểu vị thần được thờ gặp nhiều khó khăn. Theo bảng thống kê di tích ngày 04 tháng 9 năm 1964 do Dương Thị Tâm và Trần Minh Tuấn có ghi lại sơ lược thân tích của đình như sau:
Ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có một người đàn bà tên là Đinh Thị Muộc xấu xí nghèo khổ, không ai lấy, một hôm bà đi cấy dẫm phải vết chân to cảm động mà thụ thai, dân làng đuổi bà vào rừng, bà dựng lều ở. Ngày ngày hổ mang thịt đến nuôi bà cho tới kỳ sinh nở. Sau 14 tháng mang thai bà sinh ra một người con trai đặt tên là Tuấn, ngày nhỏ 2 mẹ con sống bằng nghề kiếm củi. Một hôm đi củi Tuấn đẵn phải ngô đồng của ông tiên, nên củi cứ đẵn xong lại mọc lại như cũ. Tuấn liền nấp vào bụi và thấy ông tiên có gậy đầu sinh, đầu tử làm cho những cây chặt làm củi trở lại như trước được, Tuấn liền nhảy ra ôm lấy ông tiên và nói “Con nuôi mẹ già chỉ có nghề đẵn gỗ kiếm củi, nay ông làm thế con lấy gì nuôi mẹ?”. Cụ già tươi cười an ủi trao cho Tuấn chiếc gậy thần có một đầu sinh, đầu từ và giao cho Tuấn trông nom núi Tản. Từ khi có gậy thần Tuấn cứu được nhiều người và vật, hàng ngày Tuấn vẫn kiếm củi, đốt than nuôi mẹ, dân kinh ngạc đều gọi là Thánh Tản Viên. Một hôm qua sông thấy một con rắn đen bị đánh chết Tản Viên dùng gậy hóa phép làm cho rắn sống lại, hôm sau Tản Viên qua sông đắn gỗ gặp một người con trai chào hỏi đon đả tự sưng là con vua Thủy Tề hôm trước cải trang đội lốt rắn lên cõi trần, không may bị trẻ chăn trâu đánh chết, may gặp Tản Viên sống lại được và mời Tản Viên về dưới thủy cung chơi. Vua Thủy Tề mở tiệc yến "linh đình, lúc ra về vua tặng nhiều châu báu nhưng Tản Viên không lấy và chỉ nhận quyển sách ước rồi trở về bãi cát cũ ven sông... Sau khi Tản Viên lấy Ngọc Hoa con gái vua Hùng Vương thứ 18 về ở núi Tản, ít lâu nhân ngày tết đầu năm nàng xin phép về mừng tuổi bố mẹ và anh em ở núi Nghĩa Lĩnh. Lâu ngày trở về với bố mẹ, anh em Ngọc Hoa bịn rịn không muốn rời, Tản Viên đi đón về đến ngang đường, Ngọc Hoa ngồi lại trên hòn đá không đi nữa. Tản Viên không dỗ được phải vào trong thôn nhờ dân giúp đỡ, bấy giờ mọi người bày ra cách trò vui để Ngọc Hoa vui lòng nguôi nỗi nhớ và cùng Tản Viên về núi Tản.
Như vậy đình Hữu Khánh cũng như nhiều di tích khác ở Vĩnh Phú nói chung và trên địa bàn huyện Tam Thánh nói riêng gắn liền với truyền thuyết lịch sử thờ Tản Viên Sơn Thánh, nhưng hành trang sự tích ghi chép có khác nhau, các tình tiết cụ thể trong truyện có màu sắc khác nhau, nhưng truyền thuyết lịch sử thánh Tản Viên là con rể vua Hùng Vương thứ 18 lấy Ngọc Hoa công chúa đó là huyền thoại lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Đứng đầu thần điện của người Việt”. Thứ hai đó là truyền thuyết ngoài ý nghĩa là vị thần thiên nhiên, thần núi số một ở nước nam.
Đây là những kho tàng văn hóa dân gian cổ truyền của dân tộc cần được nghiên cứu. Cũng ở ngôi đình làng Hữu Khánh đã diễn ra các sự kiện lịch sử của địa phương trong những năm kháng chiến chống Pháp, đội du kích xã đã dùng hậu cung đình làm địa điểm hội họp, bàn bạc phương án đánh giặc và chống giặc càn quét để bảo vệ tài sản của nhân dân.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ hậu cung đình là nơi cất dấu tài liệu của huyện Thanh Thủy.
IV. KIẾN TRÚC:
1. Kiến trúc
Đình Hữu Khánh nằm trên một khu đất rộng hơn 1000m2 ở đầu thôn Hữu Khánh, giữa một vùng đồi gò đan xen như bát úp, địa hình mang sắc thái của một vùng trung duy chuyển tiếp ở Bắc bộ, quanh đình là khu dân cư đông đúc, sầm uất, bốn mùa cây cối tốt tươi, phía trước là cánh đồng chiêm trũng rộng bao la. Đây là vị trí đẹp, thoáng mát cách chừng hơn 1km là khu vực hạ lưu sông Đà quanh năm nước chảy trong xanh, xa xa là ngọn núi Tản Viên đứng sừng sững bên tả ngạn sông Đà, chính ở những địa danh này đã gắn liền truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh đồng thời cũng là vị thần được thờ ở đình làng Hữu Khánh và các di tích khác ở các vùng lân cận. Nói về địa danh và vị thần được thờ ở đây trên cột đồng ở trụ của đình có ghi:
"Nhất thiên can vũ hòa phong tân đao thánh vực
Tứ vọng thanh sơn bích thủy ngất lập tiên đài”
Thật vậy đình làm ở vị trí có cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ giữa một vùng có non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình, làng xóm dân cư đông đúc trù phủ Ngày nay trên địa bàn của xã còn có mỏ cao lanh đang được khai thác với một trữ lượng thăm dò rất lớn, là tiềm năng khả quan để phục vụ trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Đình quay theo hướng đông nam kiến trúc kiểu chữ (J) gồm 2 tòa đại đình và hậu cung, phía trước là sân lộ thiên rộng, được lát gạch khang trang, sạch sẽ qua bậc thềm tam cấp cao 0,7m thì đến tòa đại đình có 3 gian, 2 dĩ, tổng số chiều dài: 9,6m, rộng 5m nhưng kích thước các gian khác nhau, gian giữa dài 2,6m hai gian bên dài 2,2m còn hai dĩ thu hẹp hơn dài 1,3m. Kết cấu phần trụ xà ngang, xà dọc được thiết kế gia cố rất cẩn thận bào trơn mộng sàm chặt khít với nhau toàn bộ hệ thống cột gỗ của đình đã được tu sửa lại xây bằng gạch chín, cột trụ hình vuông, kích thước cao 2,3m x 0,25m x 0,30m. Chính vì vậy toàn bộ trọng lượng của mái dồn nén xuống 4 quá giang chạy dài suốt chiều rộng của lòng đình gối lên 8 cột trụ và hai đầu đốc được xây tường gạch. Mặt trước phía ngoài giáp hè có hai cột đồng trụ, trên mái lợp bằng ngói mũi hái. Phía sau tòa đại đình qua một khoảng sân rộng 2,5m lát gạch sạch sẽ bước lên bậc thềm cao 0,35m là phần hậu cung đình gồm 3 gian có kích thước bằng nhau, rộng 6,5m, dài 8,2m, cột quân cao 2,3m, đường kính 0,20m. Kiến trúc phần mái theo kiểu chồng giường hạ bẩy, các đầu bẩy gối vào tường xây xung quanh. Cột và các vì kèo được bào nhẵn, song không có chạm trổ cầu kỳ như ở một số các chi tiết cấu thành phần kiến trúc ở tòa đại đình. Mặt trước có chuồng cửa gỗ xếp thành từng cánh rộng 3,3m, cao 1,40m và cửa nách hai bên rộng 0,80m trên mái lợp bằng ngói mũi hài, đường bờ nóc được đắp nối gân guốc chạy dài. Theo hai bờ dải xuống đầu đao phía trước trông nhẹ nhàng duyên dáng càng làm cho ngôi đình thêm thâm nghiêm cổ kính. Trên câu đầu gian thứ nhất có hàng chữ nho: “Thành thái thập thất niên xuân trọng đại cát”, nghĩa là: Mùa xuân năm thành thái thứ 17 làm tòa đình này.
Về lịch sử xây dựng thì đình Hữu Khánh không ghi năm tháng xây dựng mà chỉ ghi năm tu tạo. Trên đôi câu đầu gian giữa tòa đại đình có ghi:
“Canh thân niên tu tạo
Đinh hợi nguyệt khảo thành"
Nghĩa là: Đình tu tạo lại năm Canh Thân
Khánh thành vào tháng đinh hợi.
Để tìm được niên đại cụ thể chính xác của đình được làm từ năm nào đó là việc khó khăn. Vì trên 2 câu đầu chỉ ghi năm Canh Thân tu tạo và khánh thành vào tháng đinh hợi nhưng không ghi rõ Canh Thân đời vua nào: Ngoài ra không còn tài liệu nào khác để khẳng định được niên đại tuyệt đối của đình. Nhưng qua khảo cứu về kiến trúc và những bức trạm còn lại ở đại đình chúng ta có thể đoán định được rằng: Tòa đại đình làm vào những năm cuối thời hậu Lê. Lúc đầu chỉ có đại đình, sau đó đến thời Nguyễn (năm 1906) làm thêm hậu cung như hiện nay. Trải qua năm tháng thời gian dài vào những năm của thập kỷ 60 địa phương đã dùng đình để làm sân kho HTX. Vì vậy năm 1989 phần mái của tòa đại đình đã bị xuống cấp, được chính quyền và nhân dân địa phương đã tu sửa, đến nay đình vẫn còn chắc khỏe. Tuy không đồ sộ về kiến trúc nhưng vẫn còn vẻ uy nghi, thân nghiêm cổ kính. Trong đình còn nhiều di vật là đồ gỗ được trạm trổ rất tỷ mỷ, điêu luyện. Đây là những di sản văn hóa, động sản và bất động sản còn được giữ gìn bảo vệ lâu dài.
2. Điêu khắc. Như đã nói ở trên tòa đại đình Hữu Khánh được làm từ thời hậu Lê cùng tồn tại với thời gian đến nay đình đã được tu sửa vài lần nên chỉ còn 2 bức trạm, bức cuốn nách ở gian giữa và 2 kể mái sau. Ngoài ra ở các đầu bẩy kẻ truyền, kẻ nghé, dép hoành. ở tòa này và trong hậu cung không chạm trổ cầu kỳ như những ngôi đình khác, chỉ được trạm nổi hình cành mác đơn giản.
2.1. Hai bức trạm ở cuốn nách
Vị trí 2 bức trạm này ở cuốn nách mái trước gian giữa của tòa đại đình, kích thước cạnh đáy 1,4m, cạnh đứng 0,8m với kỹ thuật đục bong trạm lọng. Toàn bộ bức trạm được ghép bằng 4 tấm gỗ để tạo thành hình tam giác nhưng được bố cục rất hài hòa cân đối... góc phía trên trạm nổi đầu rồng lớn, hai mắt lồi, miệng rộng có nhiều răng như răng trâu, đầu có nhiều bờm tóc soắt, mũi lợn, cằm dưới có râu nhưng ngán, hai bên mép đầu rồng có hai rồng con đang chầu vào. Con ở bên phải (đã bị gẫy) có nhiều bờm tóc đâm tủa về phía sau, miệng há rộng, mắt nhỏ như đang tư thể nhìn nghiêng, thân rồng con được nghệ nhân điêu khắc cách điệu như cành mác.
Phần dưới cùng của bức trạm giống với xà nang trạm “Lưỡng long trầu nguyệt” con rồng con đang uốn lượn có nhiều vảy đuôi xoắn nhưng có vây dài, chân có 3 móng, đặc biệt là đầu nhỏ có bờm tóc dài phía dưới là những cành mác. Phần trạm này làm muộn hơn, có lẽ được làm lại ở những lần tu tạo sau. Cũng ở chi tiết này bức trạm ở bên trái thì đường nét trạm trổ rồng có khác. Đầu rồng ở tư thế nhìn nghiêng, miệng rộng có răng nhỏ ly ty, đuổi thẳng có nhiều vây mác, ở giữa hai rồng trầu là hình vòng tròn thái cực, quá trình biến hóa sinh lưỡng nghỉ là có âm dương kết hợp sinh ra tam tài là thiên địa nhân (nghĩa là trời đất và con người) đó là ba lực lượng tiêu biểu cho thế giới.
Bức trạm bên trái phần còn lại được trạm trổ tương tự như bức trạm bên phải, nhưng đáng tiếc đã bị một dượp không còn nguyên vẹn nữa. Qua kỹ thuật điêu khắc hai bức trạm nhuần nhuyễn với nhau. Đây là hai bức trạm xây dựng đình cuối đời Lê, đầu thời Nguyễn.
2.2. Hai bức trạm ở kẻ số 2:
Vị trí hai bức trạm này ở kẻ số 2 mái sau gian giữa tòa đại đình. Bức trạm dài 1,2m, rộng 0,3m toàn bộ chiều lài của kẻ trạm nổi hình con rồng, thân có nhiều vảy như cá chép đang uấn lượn từ phía trên xuống theo chiều dốc của mái đầu quay ngoắt lại giữa miệng há rộng, hai mắt lồi mũi chó, đầu có nhiều bờm, tóc hất ngược về phía sau như lưỡi mác nhọn trông giữ dằn hơn, đuôi soắn, chân có móng đang cặp vào những áng mây với kỹ thuật điêu khắc, rồng ở hai bức trạm này có lẽ làm muộn hơn vào thời Nguyễn.
* Tóm lại qua quan sát kỹ đường nét trạm trổ bốn bức trạm ở tòa đại đình với kỹ thuật đục bong trạm nổi, trạm: lộng có chiều sâu được bố cục chặt chẽ. Các nghệ nhân đã dùng hình tượng con rồng là con vật vũ trụ mang lại mưa thuận giữa hòa, mùa màng cây cối tốt tươi. Đó là ước mở của cư dân nông nghiệp và cũng là đề tài quen thuộc, thường được trang trí ở những công trình kiến trúc tôn giáo ở thể kỷ 18 – 19.
Ngoài ra trên 4 kẻ truyền ở mái trước và mái sau tòa đại đình và trên dép hoành, bánh kẻ đều được trạm nổi hình cành mác mềm mại uyển chuyển, thể hiện trình độ điêu khắc gỗ của các nghệ nhân thời xưa, đồng thời đây cũng là họa tiết quen thuộc thường được trang trí ở kiến trúc cung đình.
V. CÁC HIỆN VẬT TRONG DI TÍCH:
Đình Hữu Khánh hiện còn một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian. Đây là những di vật quý cần được giữ gìn lâu dài, cụ thể là:
1. Nhang án:
Nhang án được bày ở gian giữa tòa đại đình cao 195m, dài 1,73m, rộng 080m được sơn son thiếp vàng rất đẹp, mặt trước và hai đầu được trạm trổ với kỹ thuật đục hủng trạm nổi. Đề tài thể hiện hết sức phong phú, long ly quy phượng, đầu hổ phù hoa lá... Mặt trước được thành 9 ô, có kích thước khác nhau: ô dưới cùng hình bầu dục ở giữa trạm nổi đầu hổ phù bờm tóc đâm tủa lên trông giữ tợn, hai cánh tay giang rộng được các nghệ nhân điêu khắc cách điệu thành những nhành lá kéo dài xuống hai gối trạm hình đầu rồng nhỏ trẩu vào bên trong ngang hai bên đầu hổ phù lá hình hai con ly, chân có 3 móng dài, mình có vảy đang ở tư thế lao đi, đầu ngoảnh lại phía sau, trên lưng là hình một nhành lá.
Hai ô ngoài là hình chữ nhật không cân nhau có kích thước nhỏ hơn trạm hình con rồng uốn lượn, lúc ẩn lúc hiện giữa những áng mây cụm, chân có móng cặp vào những cành mác.
Năm ô phía trên cũng có kích thước khác nhau, ô ở giữa hình chữ nhật chạm nổi rồng hút nước, đầu có nhiều bờm tóc, đám tỏa về phía sau như những lưỡi mác, mình có vảy, chân có ba móng đang cặp vào những cành mác, đuôi xoắn tròn đang uốn lượn cổ cong lên như đang dùng lực nội tâm hút nước, phía dưới tiếp nối miệng rồng là một nước và hình con cá chép đang cong lại như cưỡng lại sức hút cuốn theo của dòng nước, ở góc dưới bên phải là hình con rùa cổ vươn dài, miệng đang cặp vào nhành lá phía trên. Hai ô bên hình chữ nhật có kích thước nhỏ hơn bên trái được trạm thủng, bên phải trạm nổi nhưng cùng trạm hình con rồng đang uốn lượn từ trên xuống. Hai ô còn lại góc phía trên trạm thủng hình con long mã đầu rồng (bên phải đã bị gẫy, mình có vây, vó ngựa, lưng có yên cương, bốn chân đang ở tư thế lao nhanh trông sinh động, phía dưới là hình sóng nước, xung quanh là những áng mây cụm.
Băng trên cùng là đường gờ khung của nhang án trạm, nổi những đường sin đang xen nhau, nối tiếp với nhau trông mềm mại, uyển chuyển.
Phần ngoài cùng hai bên chân cột của nhưng án trạm nổi hình con rồng đang uốn lượn từ trên xuống giữa những áng mây, đầu quay ngoắt lại có những bờm tóc ngắn, mình có vẩy như cá chép, đuôi soắn tròn, chân có 3 móng dài tiếp nối phía trên ở hai bên là hình chữ thọ.
Tiếp nối phía trên băng ở giữa đầu hổ phù làm chữ thọ, hai nét lồi bôi đen trắng hai cánh tay giang rộng, có 4 móng kéo dài về hai bên phía dưới là một dải trạm thủng hình những hoa lá. Đặc biệt hai kẻ góc phía ngoài trạm nổi hình con phượng mỏ khoằm, mắt lá dăm, hai cánh sài ông, lưng có chữ thọ đang cặp một dải mơ buộc thư sách. Qua những đường gò phía trên trạm thủng hình 17 ô hình vuông, bên trong là hình hoa thị 4 cánh, phần còn lại trên mặt nhang án tạo thành 4 ke góc trạm hình rồng đang uấn lượn, đầu ngoảnh lại phía sau đuôi soắn tròn nhang. Hai bên đầu nhang án cũng được chia thành những ô có kích thước khác nhau. Đề tài trạm trổ cũng tương tự như vậy. Như đã miêu tả ở phần trên toàn bộ mặt trước và hai mặt bên được chia thành những ô có kích thước khau, ở mỗi ô có nối tiếp với nhau qua một đường bo khung. Loại hình và đề tài trạm trổ rất phong phú, kỹ thuật điêu khắc tỷ mỷ, công phu. Đây là những di vật quý phần nào đã phản ánh được nghệ thuật điêu khắc gần gỗ của các nghệ nhân từ thế kỷ 18 – 19.
2. Kiệu bát cống:
Kiệu dài 3,85m, rộng 2,50m, cao 1,30m được chia thành 2 phần, phần dưới có 3 tầng đòn ngang dọc và tầng trên là bành kiệu. Thứ tự từ dưới lên các tầng đòn kiệu được tạo dựng kết cấu với nhau qua một mộng tiện tròn nên rất thuận lợi cho việc tháo lắp nhanh gọn, cụ thể là:
Tầng dưới cùng gồm 4 đòn dài 1,40m. Đây chính là 4 đòn để cho 8 người rước trong những ngày lễ hội.
Tầng thứ hai được gắn qua 4 mộng tiện tròn với 4 dòn phía dưới. Hai đòn này dài 2,50m, rộng 1,17m.
Tầng thứ 3 là hai đòn cái dài 3,85m, rộng 0,22m, phần trên là bành kiệu đặt ở giữa hai đòn cái bành kiệu có kích thước dài: 1,00m, rộng 0,77m, cao 0,60m. Ở 8 đòn kiệu có kích thước khác nhau nhưng đề tài thể hiện ở từng đòn kiệu tương tự như nhau. Với kỹ thuật dục bong trạm thủng, trạm nổi hình con rồng đầu to có nhiều bờm tóc dài như lưỡi mác lao vút về phía sau, mũi hếch, mắt lồi bôi đen trắng, miệng ngậm ngọc. Phần cổ có nhiều vẩy như cá chép. Rồng ở tư thế nhìn nghiêng nối tiếp với bờm tóc đầu rồng lưỡi trạm toàn thân hình con rồng nhỏ, thân uấn lượn có nhiều vẩy, đầu có bờm tóc dài đang nhìn nghiên đuôi soắn tròn trạm với đạo mác đầu rồng lớn.
Ở giữa đòn kiệu diễm phía dưới trạm nổi hình hổ phù, hai mắt lồi bôi đen trắng trông dữ tợn, mũi chó, trán có nhiều vẩy, bờm tóc soắn như vận mây, hai cánh tay giang rộng với 4 móng nhọn sắc bám chặt vào đường gờ của kiệu, miệng há rộng, cằm chữ thọ khắc chìm. Hai bên đầu hổ phù trạm nổi hình hai con phượng đang bay cánh sải rộng, dầu dài, mỏ khoằm, mắt nhỏ lá dăm trông vẻ tinh nhanh đang nhìn vào phía trong.
Ở hai đòn ngang phần giữa có một mảng hình lá để trạm nổi hình long mã đầu rồng vó ngựa, mình có vẩy đang ở tư thế đua với tốc độ rất nhanh. Cũng ở phần này mặt sau là hình con công chân gà gân guốc có 4 móng hai cánh sải rộng được đặc tả rất tỷ mỷ, đầu ngoảnh lại phía sau, xung quanh là những áng mây cụm.
Phần trên là bành kiệu đặc ở giữa trên đòn cái được tạo dựng nối tiếp bằng 4 chân được tạo dựng theo kiểu “chân quỳ dạ cá”. Phía dưới được chia thành 3 băng được cách nhau bởi những đường gờ.
Băng dưới cùng ở giữa trạm nổi đầu hổ phù miệng cắm chữ thọ khắc chìm hai cánh tay giang rộng kéo dài về hai góc. Trạm cách điệu thành những nhành lá. Băng thứ hai trạm thủng và trạm nổi thành những hoa văn hành sin mềm mại. Băng thứ ba được chia thành 3 ô (ô giữa ngắn hơn) ô giữa trạm hình con phượng cánh sải dài quá khổ, 2 ô hai bên là hình rồng uấn lượn mềm mại sinh động.
Phần trên ở hai đầu mặt ngoài trạm nổi hình rồng đang uốn lượn mũi hếch đang nhìn nghiêng, bờm tóc dài, thân có vẩy như cá chép chân có 4 móng bám chặt vào những cành mác, đuôi soăn tròn phía sau là hình con ly, mình ngựa chân có 3 móng, đầu rồng đang lao về phía trước. Mặt ngoài hậu bành kiệu tạo dáng như lá đề. Phần trên trạm nổi đầu hổ phù bờm tóc soắn, mắt lồi bôi đen trắng trông giữ tợn, hai cánh tay giang rộng bám vào những cành mác. Phía dưới là con rồng đang uốn lượn ẩn hiện giữa rừng đeo mác mây cụm, bên trái là hình con phượng mở cặp một dải nơ tết hình số 3 buộc thư sách chính diện, phía dưới là hình con rùa đang đội như sách của con phượng phía trên. Rùa đầu dài đang đi đông, miệng cặp một cành mác, bên trái là long mã đầu rồng vó ngựa, lưng có chữ thọ, phía dưới cùng là hình sóng nước vẫn mây.
Tóm lại: Kiệu ở đây được các nghệ nhân xưa với kỹ thuật trạm trổ tinh xảo, với những đề tài quen thuộc: long ly, quy, phượng, đầu hổ phù.... Bố cục hài hòa cân đối. Toàn bộ kiệu được sơn son thiếp vàng óng rất đẹp. Đúng là những di vật quý cần được bảo vệ và sử dụng lâu dài
3. Long ngai:
Trong đình Hữu Khánh hiện còn 5 cỗ long ngai và bài vị nhưng không ghi mỹ hiệu (trong đó có 3 cái nhỏ hơn). Long ngai cao 1,0m, rộng 0,45m. Phần đế được chia thành băng nối tiếp nhau qua đường gờ của đế và ngại được trạm thành hình đầu rồng, đầu ra phía ngoài.
Băng thứ nhất trạm hình đầu hổ phù hai mát lồi bôi đen trắng, hai tai nhọn thẳng với bờm tóc hất ngược lên trông giữ dằn hơn.
Băng thứ hai trạm thủng hình hoa thị 4 cánh và những đường hoa văn kẻ nổi uốn lượn sinh động.
Băng thứ ba chia thành 3 ô, ô ở giữa nhỏ hơn, cách điệu thành lá hình rồng. Phần trên là tay ngại hai đầu rồng, mỗi bên có 3 cột tiện thắt cổ bồng (hai tay song ngoài trạm nổi hình rồng) ở giữa đặt mục đục không ghi mỹ hiệu. Tất cả được sơn son thiếp vàng.)
4. Bộ chấp e kính
Trong tòa hậu cung hiện còn một bộ chấp kích được bảy trên giá, cụ thể như sau:
- Hai thành đại đạo dài 2,55m
- Một thanh trung đạo dài 2,18m ở phần cận tiếp giáp với lưỡi có lá chắn hình bầu dục.
- Dùi đồng: 1 đôi dài 1,82m được sơn son thiếp vàng.
- Phủ vật: 1 đôi dài 1.90m
- Quả trùy: 1 đôi dài 1,90m
- Kiếm: 3 cái dài 8,65m và cài nhiều hiện vật mới tôn tạo
Biển có 4 cái dài 1,70m, phần trên hình chữ nhật dài 0,35m, rộng 0,25m, dày 0,05m ở giữa mỗi mặt có hai chữ nho màu vàng óng, điểm xung quanh biểu được trạm thủng, trạm nổi hình “lưỡng long trẩu nguyệt” đầu hổ phù vàng hình những nhành lá.
Tất cả các di vật bộ chấp kính được sơn son thiếp vàng rất đẹp.
5, mâm bồng: Hiện còn 8 mâm bồng, mâm ấu hình tròn được tiện bằng gỗ với kỹ thuật tinh tế khéo léo. Đường kính 0,40m cao 0,22m.
6. Mâm xà: Một chiếc cao 0,28m, rộng 0,45m, dài 0,60m được sơn mầu đen bóng. 7. Rùa đội bạc: Một đôi cao 0,55m dài 0,45m, hạc cổ dài có 5 tóc mao, mình trạm trổ có nhiều lớp, lòng dày trạm tỷ mỷ chau chuốt, mỏ cặp một búp sen chưa nở, đứng trên lưng con rùa đầu ngẩng cao (rùa đội hạc).
8. ống nhang: Có 3 cái và hai cây sáp.
9. Hòm sắc: Dài 0,70m, rộng 0,11m (hình chữ nhật) được sơn son thiếp vàng vẽ hình rồng trầu mặt nguyệt.
10. Đài gỗ: Một cái hình bát giác, có 8 cạnh kích thước khác nhau 4 cạnh hình vuông bằng nhau, 4 cạnh hình chữ nhật bằng nhau trên thân dài được sơn son thiếp vàng vẽ trang trí hình rồng phượng cầm thư trông sinh động. Đài cao 0,36m, dài 0,34m.
11. Đài gỗ: 5 cái.
12. Nậm gốm: Một đôi màu trắng, đục hoa văn xanh lam và một số bát hương thờ.
13. Sắc phong: hiện còn 5 đạo sắc.
- Tự Đức tam thập, tam niên, nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.
- Tự Đức tam thập, tam niên, nhất nguyệt nhị thập tứ nhật. - Tự Đức lục niên cửu nguyệt nhị thập tứ nhật (còn 2 đao) - Đổng khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật (1/7/1888)
- Duy tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật (11/8/1910)
14. Giá văn: Một chiếc trạm nổi hình rồng chầu mặt trời xung quanh có nhiều áng mây cụm và những cành đao mác.
Có thể nói, Đình Hữu Khánh xã Tân Phương gắn liền với truyền thuyết lịch sử thờ Tản Viên sơn Thánh và những tướng lichx có tài đã giúp Vua Hùng Duệ Vương thứ 18 đánh giặc Thục trong buổi đầu dựng nước của dân tộc. Đay là những tư liệu lịch sử rất quý làm cơ sở nghiên cứu và bổ sung các tướng lĩnh về thời đại HÙng Vương. Phần kiến trúc của đình đã được tu sửa nhằm bảo vệ những di vật trong đình lâu dài. Đây là những kho tàng văn hoá dân gian của nhân dân có tác dụng giáo dục truyền thống cho muôn đời.